• Breaking News

    Các nguyên nhân, phương pháp chữa trị các bệnh thường gặp

    Tuesday, May 27, 2014

    Bệnh Ung thư tuyến giáp

    Theo một thống kê tại Mỹ, hàng năm số người phát hiện ra mình bị ung thư tuyến giáp là hơn 12000 người, và số người mắc các bệnh tuyến giáp cũng không hề nhỏ (nhược giáp trạng, basedow...). Ung thư tuyến giáp là căn bệnh chiếm khoảng 1% trong tổng số các loại ung thư. Nhưng một điều đáng mừng là Ung thư tuyến giáp thường đáp ứng tốt với điều trị và nhiều bệnh nhân đã được chữa khỏi.


                Các bệnh thường gặp về tuyến giáp: basedow, nhuoc giap trang, cường giáp...

    Phân loại ung thư tuyến giáp

    Có bốn dạng chính ung thư tuyến giáp là: dạng nhú, dạng nang, dạng tuỷ và dạng không biệt hoá. Các bác sĩ có thể gọi tên dạng ung thư theo típ tế bào quan sát được trên kính hiển vi hoặc theo kiểu phát triển của khối u.

    Ung thư dạng nhú : Ung thư dạng nhú  phát triển tế các tế bào sản xuất các hormone tuyến giáp chứa iốt. Các tế bào ung thư  phát triển rất chậm và tạo thành nhiều cấu trúc nhỏ hẹp hình nấm trong khối u. Các bác sĩ thường điều trị thành công các khối u này thậm chÍ ngay cả khi các tế bào u đó lan sang các hạch bạch huyết lân cận. Các khối u dạng nhú chiếm khoảng 60% toàn bộ các dạng ung thư tuyến giáp.

    Dạng nang: Các khối u dạng nang cũng phát triển tế các tế bào tạo hormone chứa iốt. Những khối u này có một lớp mô mỏng bao quanh được gọi là vỏ. Nhiều u dạng nang có thể được chữa khỏi. Tuy nhiên, bệnh có thể khó kiểm soát được nếu khối u xâm lấn vào mạch máu hoặc tăng trưởng xuyên qua vỏ sang các cấu trúc vùng cổ lân cận. Khoảng 17% ung thư tuyến giáp là các u dạng nang.

    Dạng tủy: Các khối u dạng tuỷ ảnh hưởng các tế bào tuyến giáp sản xuất hormone không chứa iốt. Mặc dù những khối u này phát triển chậm nhưng chúng khó kiểm soát hơn so với các u dạng nang và u dạng nhú. Các tế bào ung thư có xu thế lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Chỉ có khoảng 5% các loại ung thư tuyến giáp là các khối u dạng tuỷ. Người ta dự đoán rằng cứ 10 người bị ung thư tuyến giáp dạng tuỷ thì có một người là do di truyền.

    Dạng không biệt hóa: Các khối u không biệt hoá là loại tăng trưởng nhanh nhất trong tất cả các loại khối u tuyến giáp. Các tế bào ung thư, đặc biệt bất thường, lan rất nhanh sang các bộ phận khác của cơ thể. Các khối u không biệt hoá chiếm khoảng 18% trong tổng số ung thư tuyến giáp và thường xuất hiện ở những người trên 60 tuổi.



              So với các bệnh suy tuyen giap thông thường, ung thư tuyến giáp rất nguy hiểm

    Nguyên nhân gây bệnh

    Các bác sỹ vẫn chưa có kết luận chính xác về nguyên nhân gây bệnh ung thư tuyến giáp. Tuy nhiên, các nhà khoa học đó nhận ra rằng ung thư tuyến giáp xuất hiện ở phụ nữ nhiều hơn gấp hai đến ba lần so với nam giới và thường gặp ở người da trắng hơn người da đen. Các nhà khoa học cũng chưa hiểu đầy đủ về nguyên nhân gây ra những điều này và họ vẫn tiếp tục nghiên cứu về ung thư tuyến giáp để cố gắng tìm hiểu xem điều gì có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

    Một yếu tố nguy cơ được biết là sự phơi nhiễm với tia phóng xạ trong suốt thời tuổi thơ.  Trước khi các bác sĩ biết được các mối nguy hại của tia phóng xạ thì tia xạ đó được dùng để điều trị mụn trứng cá và để làm giảm phù nề và nhiễm khuẩn trong các cơ quan như tuyến ức, amyđan và các hạch. Những người được điều trị bằng tia xạ vùng đầu và cổ khi còn nhỏ thì có nguy cơ bị ung thư tuyến giáp cao hơn trung bình sau nhiều năm. Các nhà khoa học đang thực hiện các nghiên cứu để xác định xem liệu sự phơi nhiễm với các loại bức xạ khác có gây ung thư tuyến giáp hay không.

    Các triệu chứng

    Triệu chứng phổ biến nhất của ung thư tuyến giáp là cảm thấy có một khối hoặc một nhân ở vùng cổ. Các triệu trứng khác hiếm gặp. Éau hiếm khi là dấu hiệu cảnh báo sớm của ung thư tuyến giáp. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có cảm giác đầy hoặc tắc ở cổ, khó thở hoặc khó nuốt, khản giọng hoặc sưng các hạch bạch huyết. Những triệu chứng này có thể là do ung thư tuyến giáp hoặc những bệnh khác Ít nghiêm trọng hơn gây nên.  Chỉ bác sĩ mới có thể xác định được nguyên nhân gây các triệu chứng ở một người bệnh.

    Điều trị

    Phẫu thuật là phương thức điều trị phổ biến nhất đối với loại ung thư tuyến giáp  còn chưa lan sang các phần khác của cơ thể. Bác sĩ phẫu thuật thường cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ tuyến giáp và các mô bị ảnh hưởng khác, như các hạch bạch huyết. (Nếu bệnh nhân được sinh thiết bằng phẫu thuật thì có thể tiến hành đồng thời  sinh thiết và cắt bỏ tuyến giáp).

    Các bệnh nhân bị ung thư tuyến giáp tại chỗ dạng nang hoặc nhú có thể được điều trị bằng I-131 (với liều lớn hơn so với liều dùng để chụp tuyến giáp). Iốt được bệnh nhân uống vào sẽ tập trung tại các tế bào ung thư còn sót lại trong cơ thể sau phẫu thuật. Bằng cách huỷ hoại những tế bào ung thư này, iốt phóng xạ giúp phòng chống bệnh tái phát trở lại. Các bệnh nhân phải nằm viện trong một vài ngày trong khi hoạt tÍnh phóng xạ còn cao nhất. Liệu trình điều trị có thể được lặp lại sau đó.

    Các hormone thường được dùng cho các bệnh nhân đó được phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp và / hoặc đó  điều trị bằng iốt phóng xạ. Các hormone thay thế cho những loại được tuyến giáp sản xuất trong điều kiện bình thường. Việc điều trị này cũng làm giảm sự tăng trưởng của các tế  bào ung thư tuyến giáp còn sót lại trong cơ thể. Bác sĩ có thể cần phải tiến hành một số  xét nghiệm theo dếi để xem bệnh nhân đó có một lượng phù hợp các hormone cần thiết hay chưa.

    Phẫu thuật không được chỉ định cho các bệnh nhân bị ung thư tuyến giáp đó lan rộng. Việc điều trị thông thường bao gồm phương pháp điều trị hệ thống (diệt tế bào ung thư hoặc làm chậm sự tăng trưởng của các tế bào ung thư tuyến giáp trong toàn cơ thể), chẳng hạn như hoá trị liệu, iốt phóng xạ trị liệu, và/hoặc hormone trị liệu.

    Việc theo dõi định kỳ sau điều trị ung thư tuyến giáp là rất quan trọng. Theo dõi bao gồm khám lâm sàng toàn thân, chụp X quang, chụp xạ hình, xét nghiệm máu định kỳ.
    Tin tức: cho thuê chung cư royal city | căn hộ hoàng thành tower | chung cư 88 láng hạ | bán times city park hill

    No comments:

    Post a Comment

    Nguyên Nhân

    Tác Hại

    Cách điều trị